Ngày 20/11/1989, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (Công ước về quyền trẻ em) và mở cho các nước ký, phê chuẩn và tham gia theo Nghị quyết số 44/25. Theo quy định tại Điều 49 của Công ước, Công ước quốc tế về quyền trẻ em có hiệu lực từ ngày 02/9/1990. Hiện đã có 192 nước trên thế giới đã phê chuẩn Công ước quyền TE, chỉ có hai nước chưa phê chuẩn là Somali (chế độ quân chủ) và Hoa Kỳ. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực châu Á và là nước thứ hai trên thế giới đã phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990.
Thực hiện công ước:
- Thành lập một cơ quan quốc gia chuyên trách về quyền trẻ em
- Đề ra các mục đích và mục tiêu thực hiện Công ước
- Nội luật hóa các quy định của Công ước
- Thực hiện các chương trình và các hoạt động theo khuyến nghị
Theo dõi, dánh giá thực hiện Công ước:
- Xem xét tình hình hiện tại của trẻ em tại các quốc gia thành viên;
- Xác định quốc gia thành viên đã làm được những gì theo các khuyến nghị;
- Xác định quốc gia thành viên cần thiết phải làm gì.
Quyền bảo lưu:
- Công ước chấp nhận việc một chính phủ định ra một độ tuổi trưởng thành khác với độ tuổi quy định trong Công ước. Đối với Việt Nam, những người có độ tuổi dưới 16 tuổi được coi là trẻ em (quy định của Công ước là 18 tuổi)
- Cho phép một chính phủ vừa phê chuẩn vừa được quyền có những bảo lưu: Bảo lưu là tuyên bố đơn phương của một quốc gia khi ký, gia nhập hay phê chuẩn Công ước nhằm loại bỏ hay sửa đổi hiệu lực pháp lý của một hay một số điều trong công ước đối với nước đó. Tuy nhiên, nếu Công ước cấm bảo lưu thì nước tham gia không được bảo lưu. Việt Nam không bảo lưu một điều khoản nào trong Công ước.
Công ước có 54 điều, chia làm 3 phần:
Điều 1 đến điều 41: Các quyền của mọi trẻ em.
Điều 42 đến điều 45: Cơ chế giám sát và thực hiện Công ước.
Điều 46 đến điều 54: Các điều kiện để phê chuẩn và bảo lưu của các quốc gia.
Công ước quyền trẻ em năm 1989 đã bao quát được tất cả các khía cạnh của quyền trẻ em. Đặc biệt trong Phần I, bên cạnh định nghĩa, các nguyên tắc chung của việc bảo vệ quyền trẻ em, Công ước còn đề cập các biện pháp bảo vệ đối với trẻ em tị nạn, trẻ em trong khu vực có xung đột quân sự, trẻ em bị bóc lột và trẻ em thuộc dân tộc thiểu số.
Tóm tắt nội dung các nhóm quyền:
Các quyền sống còn: Quyền cơ bản nhất của con người, bao gồm quyền được sống và được chăm sóc sức khỏe và y tế ở mức cao nhất có thể có được, được giúp đỡ trong trường hợp khẩn cấp.
Các quyền được bảo vệ: bao gồm việc bảo vệ trẻ em thoát khỏi mọi phân biệt đối xử, lạm dụng hay bỏ mặc, bảo vệ trẻ em không có gia đình cũng như bảo vệ trẻ em trong các tình huống đặc biệt.
Các quyền phát triển: bao gồm mọi hình thức giáo dục (chính thức hoặc không chính thức) và quyền được có mức sống đầy đủ cho sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ em.
Các quyền tham gia: bao gồm quyền của trẻ được bày tỏ quan điểm của mình trong mọi vấn đề liên quan đến bản thân.
Trong đó, các quyền phải thực hiện ngay là các nhóm quyền về dân sự và chính trị (quyền sống còn và quyền được bảo vệ), bao gồm các vấn đề như: Quyền được sống, Quyền được có quốc tịch, Quyền được đoàn tụ với gia đình và một số quyền được bảo vệ, Không phân biệt đối xử, Chống bạo lực, lạm dụng, bóc lột, đối xử vô nhân đạo, Quyền được lắng nghe tường trình một cách vô tư, Công bằng trong các vụ án hình sự và một hệ thống tòa án vị thành niên riêng biệt...
Các quyền thực hiện từng bước là các quyền về y tế, giáo dục và các quyền không nằm trong nhóm quyền sống còn và quyền được bảo vệ. Điều 4 của Công ước quy định: "Đối với các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa các quốc gia cam kết có các biện pháp sao cho có thể thực hiện đến mức tối đa trong điều kiện kinh tế cho phép, hoặc thực hiện khi cần thiết, trong khuôn khổ hợp tác quốc tế".
Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 là điều ước quốc tế đa phương phản ánh tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền trẻ em cũng như sự quan tâm của các quốc gia đối với thế hệ trẻ. Lần đầu tiên, Công ước về quyền trẻ em đã khái quát được các khía cạnh của quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền của trẻ em và mỗi quan hệ giữa quyền trẻ em với quyền con người nói chung.
Thiết chế giám sát thực hiện Công ước:
Điều 43 của Công ước quyền trẻ em năm 1989 quy định thành lập Uỷ ban về quyền trẻ em nhằm xem xét sự tiến bộ mà các quốc gia thành viên đạt được trong việc thực hiện các nghĩa vụ mà họ đã cam kết thông qua các báo cáo định kỳ. Các quốc gia thành viên thực hiện xây dựng Báo cáo về tình hình các quyền trẻ em và các tiến bộ nhằm đạt được các mục đích trong Công ước. Báo cáo lần thứ nhất: hai năm sau khi phê chuẩn ( năm 1992), sau đó báo cáo định kỳ 5 năm một lần.
Đồng thời theo Điều 45, bên cạnh Uỷ ban về quyền trẻ em thì các cơ quan chuyên môn, UNICEF và các tổ chức khác thuộc Liên hợp quốc cũng có thẩm quyền giám sát, giúp đỡ các quốc gia thành viên trong quá trình thực hiện Công ước./.
Minh Hạnh