Một số quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai

23/01/2025

Ngày 04/10/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 123/2024/NĐ-CP về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực đất đai. Nghị định số 123/2024/NĐ-CP ban hành nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về công tác xử phạt vi phạm hành chính về đất đai sau khi Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành với nhiều điểm mới, cụ thể:

Một là, mở rộng phạm vi điều chỉnh và bổ sung thêm một số định nghĩa.

Nghị định số 123/2024/NĐ-CP bổ sung thêm phạm vi điều chỉnh là hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện; đối tượng bị xử phạt.

Đồng thời, Điều 3 Luật Đất đai 2024 đã quy định cụ thể về hành vi lấn đất, chiếm đất, hủy hoại đất nên trong Nghị định số 123/2024/NĐ-CP không còn điều khoản giải thích từ ngữ như Nghị định số 91/2019/NĐ-CP.

Hai là, về thời hiệu xử phạt hành chính lĩnh vực đất đai.

Nghị định số 123/2024/NĐ-CP và Nghị định số 91/2019/NĐ-CP đều quy định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là 02 năm.

Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt: Đối với hành vi vi phạm đã kết thúc thì thời hiệu tính từ thời điểm kết thúc hành vi vi phạm; đối với hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm.

Nghị định số 123/2024/NĐ-CP năm 2024 bổ sung quy định: Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trước ngày 15/10/1993 mà chưa có văn bản xử lý vi phạm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước ngày Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành thì không xử lý theo quy định tại Nghị định này.

Ba là, bổ sung thêm biện pháp khắc phục hậu quả.

Nghị định số 123/2024/NĐ-CP bổ sung một số biện pháp khắc phục hậu quả mới cho phù hợp với Luật Đất đai 2024, như: Buộc thực hiện thủ tục để được phê duyệt dự án chăn nuôi tập trung có quy mô lớn; buộc lập phương án sử dụng đất nông nghiệp đối với tổ chức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp; buộc thành lập tổ chức kinh tế và lập phương án sử dụng đất trồng lúa đối với cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhận chuyển quyền sử dụng đất lúa vượt hạn mức.

Bốn là, thay đổi về mức tiền phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

Nghị định số 123/2024/NĐ-CP bổ sung quy định việc xác định mức phạt cụ thể căn cứ vào mức phạt của từng hành vi quy định tại Nghị định số 123/2024/NĐ-CP và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định hướng dẫn thi hành.

Bên cạnh việc thay đổi mức tiền phạt, Nghị định số 123/2024/NĐ-CP cũng bổ sung Thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND cấp xã. Nghị định số 123/2024/NĐ-CP bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả của Chủ tịch UBND cấp xã là buộc khôi phục tình trạng ban đầu của mốc địa giới đơn vị hành chính (Điều 30).

Năm là, quy định xử phạt trong trong trường hợp chuyển quyền, cho thuê, cho thuê lại, góp vốn quyền sử dụng đất.

Bên cạnh việc kế thừa các quy định của Nghị định số 91/2019/NĐ-CP, Nghị định số 123/2024/NĐ-CP bổ sung việc xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp có giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất, cho thuê, cho thuê lại, góp vốn quyền sử dụng đất, theo đó: Trường hợp vi phạm hành chính xảy ra trước khi chuyển quyền sử dụng đất, nếu bên chuyển quyền là Tổ chức đã giải thể, phá sản, cá nhân đã chết không có người thừa kế hoặc chuyển đi nơi khác mà được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận tại thời điểm phát hiện hành vi vi phạm không xác định được địa chỉ và không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất thì bên nhận chuyển nhượng không bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả do bên chuyển quyền gây ra.

Sáu là, quy định về cách tính số lợi bất hợp pháp do hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.

Cơ bản Nghị định số 123/2024/NĐ-CP kế thừa Nghị định số 91/2019/NĐ-CP và Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày 06/01/2022 về cách tính số lợi bất hợp pháp trong trường hợp lấn, chiếm, chuyển mục đích…Nghị định 123/2024/NĐ-CP còn bổ sung quy định trường hợp hành vi vi phạm do nhiều tổ chức, cá nhân cùng thực hiện trên cùng một thửa đất thì số lợi bất hợp pháp phải thu được chia đều cho các tổ chức, cá nhân vi phạm (Điều 6).

Bảy là, quy định về mức độ khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm.

 Khoản 5 Điều 14 của Nghị định giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế tại địa phương để quy định các trường hợp không có tính khả thi và mức độ khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất đối với hành vi hủy hoại đất. Quy định này giao quyền cho các địa phương xác định các trường hợp không có tính khả thi và mức độ khôi phục lại tình trạng ban đầu của hành vi hủy hoại đất để đảm bảo sự phù hợp với thực tế từng địa phương, qua đó đảm bảo tính khả thi và phù hợp với từng địa phương cụ thể.

Tám là, quy định rõ thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính.

Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính theo Khoản 2, Điều 32 Nghị định số 123/2024/NĐ-CP gồm: Người có thẩm quyền xử phạt; Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra do Chánh Thanh tra cấp tỉnh thành lập, công chức làm công tác địa chính cấp xã; công chức, viên chức thuộc cơ quan có chức năng quản lý đất đai các cấp đang thi hành công vụ.

Công chức, viên chức kiểm lâm đang thi hành công vụ được lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành vi liên quan đến lâm nghiệp. Người thuộc lực lượng Công an nhân dân đang thi hành công vụ được lập biên bản vi phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại Nghị định này (Nghị định 123/2024/NĐ-CP); người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân đang thi hành công vụ được lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng đất quốc phòng.

Luật Đất đai đã thể chế hóa Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, xây dựng thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đang dần đi vào cuộc sống. Việc ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai phù hợp với yêu cầu thực tiễn./.

LINH CHI